Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân đội Nhân dân (QĐND) Việt Nam thực sự là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng; là lực lượng chính trị; lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; làm tròn chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Ngược dòng lịch sử, vào tháng 12/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Chỉ thị nhấn mạnh: “Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền…, đồng thời nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc…”.
Ngày 22/12/1944, tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chính thức làm lễ thành lập, gồm 3 tiểu đội với 34 chiến sĩ được lựa chọn, đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của QĐND Việt Nam. Ngày 22/12 năm đó được xác định là Ngày thành lập QĐND Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Một quân đội “của dân, do dân, vì dân”; luôn gắn bó máu thịt với dân, luôn được dân tin yêu, đùm bọc.
Với niềm tự hào về những truyền thống vẻ vang của Quân đội ta, trong không khí hân hoan, phấn khởi, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam. Tuy nhiên, đi ngược lại với niềm tự hào dân tộc, trên internet và một số trang mạng xã hội lại xuất hiện những bài viết có nội dung phán xét, xuyên tạc, phủ định, đòi tách sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ta.
Âm mưu thâm độc đó là gì?
Càng gần đến ngày kỷ niệm, bằng nhiều hình thức, phương tiện khác nhau, các thế lực thù địch, phản động lại hợp xướng “bài ca muôn thuở” – đồng loạt tung ra những luận điệu cũ rích, xảo biện, xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và tổ chức, lãnh đạo quân đội là do yêu cầu lịch sử của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng hiện nay Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng và thống nhất đất nước, Đảng đã “hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình” và không cần sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Họ cho rằng, quân đội phải “trung lập”, quân đội phải “đứng ngoài chính trị”.
Bản chất của luận điệu này là muốn làm cho quân đội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất phương hướng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, suy yếu về chính trị, tiến tới bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Chúng muốn làm thoái hoá, biến chất một đội quân vốn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành một đội quân đi ngược lại lợi ích của Đảng, của Nhân dân, từ đó dễ bề phá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là chân lý không thể phủ định
Kế thừa, phát triển những nguyên lý của C.Mác và Ph. Ăng-ghen về xây dựng quân đội, V.I. Lê-nin đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thắng lợi những thành quả cách mạng. Một trong những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới đó là phải xây dựng quân đội về chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong bức điện V.I. Lê-nin gửi Ủy ban Quân sự cách mạng mặt trận miền Đông, V.I. Lê-nin căn dặn: “Phải đề cao công tác chính trị… Đừng chỉ có lo mặt chiến đấu…”.
Vận dụng vào thực tiễn ở nước ta, ngay từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của yếu tố chính trị, tinh thần trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1944, trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của yếu tố chính trị: chính trị trọng hơn quân sự. Tiếp đó, Người khẳng định: “Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị. Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
Trải qua các thời kỳ đại hội, Đảng ta luôn khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, trong đó có QĐND Việt Nam. Gần đây nhất, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã một lần nữa khẳng định: “Xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”; “Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; “Vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”; “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân”.
Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thực tiễn đã chứng minh, Quân đội ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, vẻ vang.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển đất nước. Đây là thành tựu lớn nhất về quốc phòng. Trong suốt 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và an ninh cho sự phát triển đất nước, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Đặc biệt, Quân đội và Nhân dân ta đã trải qua 02 cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược với các chiến thắng nổi tiếng như: Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950; Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954; Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968; Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” năm 1972; Đại thắng mùa Xuân năm 1975…
Hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc ngày càng được hoàn thiện. Những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, nhằm kịp thời thể chế hóa quan điểm, đường lối quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, như “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam”; “Chiến lược Quân sự Việt Nam”; “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng”; “Chiến lược Bảo vệ biên giới quốc gia”. Nhà nước đã xây dựng, ban hành mới và bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về quốc phòng: Luật Quốc phòng, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ, Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng, Luật Cảnh sát biển Việt Nam…
Tiềm lực quốc phòng được tăng cường; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hiện nay, nội hàm của tiềm lực quốc phòng đã cơ bản thống nhất, gồm: tiềm lực chính trị; tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực quân sự; tiềm lực khoa học và công nghệ; tiềm lực đối ngoại. Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta tiếp tục nhất quán chủ trương xây dựng, tăng cường tiềm lực quốc gia và tiềm lực quốc phòng, sẵn sàng huy động một cách nhanh nhất, kịp thời, hiệu quả nhất để xử lý thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng trong mọi tình huống. Đặc biệt, ở phần nhiệm vụ và giải pháp, Chiến lược nhấn mạnh: “xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng, chuẩn bị nguồn lực quốc gia”.
Hợp tác quốc tế về quốc phòng đạt nhiều kết quả. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, hợp tác quốc phòng không ngừng được mở rộng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 nước, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và 3 tổ chức quốc tế. Thiết lập quan hệ quốc phòng với các đối tác chủ chốt, gồm: 3 nước quan hệ đối tác hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện; 4 nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, 13 nước có quan hệ đối tác chiến lược; 13 nước có quan hệ đối tác hợp tác toàn diện.
Như vậy, với những kết quả đó hoàn toàn có thể nói rằng: thật là ấu trĩ và mù quáng khi những kẻ thiếu bản lĩnh chính trị và đạo đức cách mạng đòi xoá bỏ sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QĐND Việt Nam./.
Thào Dâng