1

Áp dụng chế độ tiền lương, phụ cấp, thu nhập thống nhất từ 1/7/2024

Theo Nghị quyết 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023 của Quốc hội, từ ngày 01/7/2024, bãi bỏ tất cả các cơ chế quản lý tài chính, thu nhập đặc thù của các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước; áp dụng chế độ tiền lương, phụ cấp, thu nhập thống nhất.

Thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW

Nghị quyết nêu rõ, về thực hiện chính sách tiền lương, từ ngày 01/7/2024, thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (Nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương bảo đảm từ nguồn cải cách tiền lương tích lũy của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và một phần bố trí trong dự toán chi cân đối ngân sách nhà nước); điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hằng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công và một số chính sách an sinh xã hội đang gắn với lương cơ sở.

Đối với các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước ở Trung ương đang thực hiện cơ chế quản lý tài chính, thu nhập đặc thù:

Từ ngày 01/01/2024 đến hết ngày 30/6/2024: Mức tiền lương và thu nhập tăng thêm hằng tháng tính theo mức lương cơ sở 1,8 triệu đồng/tháng theo cơ chế đặc thù bảo đảm không vượt quá mức tiền lương và thu nhập tăng thêm được hưởng tháng 12/2023 (không bao gồm phần tiền lương và thu nhập tăng thêm do điều chỉnh hệ số tiền lương ngạch, bậc khi nâng ngạch, nâng bậc năm 2024). 

Trường hợp tính theo nguyên tắc trên, nếu mức tiền lương và thu nhập tăng thêm năm 2024 theo cơ chế đặc thù thấp hơn mức tiền lương theo quy định chung thì chỉ thực hiện chế độ tiền lương theo quy định chung để bảo đảm quyền lợi cho người lao động.

Áp dụng chế độ tiền lương, phụ cấp, thu nhập thống nhất từ ngày 1/7/2024

Từ ngày 01/7/2024, bãi bỏ tất cả các cơ chế quản lý tài chính, thu nhập đặc thù của các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước; áp dụng chế độ tiền lương, phụ cấp, thu nhập thống nhất. 

Không tiếp tục áp dụng cơ chế đặc thù hiện hành đối với phần kinh phí thường xuyên theo cơ chế quản lý tài chính đặc thù (chi hoạt động, tăng cường năng lực, hiện đại hóa, đảm bảo hoạt động chuyên môn,…) của các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước. 

Giao Chính phủ tổ chức thực hiện và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8.

Các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương theo quy định. 

Cho phép tiếp tục loại trừ một số khoản thu khi tính số tăng thu ngân sách địa phương dành để cải cách tiền lương như quy định tại khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết số 34/2021/QH15 ngày 13 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội.

Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an



Không bắt buộc lắp thiết bị giám sát hành trình đối với phương tiện giao thông cá nhân

Quy định về lắp thiết bị giám sát hành trình đối với các loại xe cơ giới chuyên dụng tại Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ những ngày qua đang được dư luận hết sức quan tâm. Bộ Công an thông tin một số nội dung để người dân nắm và hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Tại họp báo công bố kết quả kỳ họp Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 6 vào sáng 29/11/2023, Trung tướng Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội cho biết: đây là dự thảo ban đầu, các đại biểu Quốc hội đang cho ý kiến, đồng thời sẽ có khảo sát, tọa đàm đánh giá nhiều chiều; cơ quan thẩm tra có trách nhiệm phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan chức năng đánh giá tác động của chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của người dân Việt Nam để quy định đảm bảo quản lý xã hội, phục vụ lợi ích của người dân.

Tuy nhiên, những ngày qua trên các diễn đàn mạng xã hội, nhiều người dân chưa hiểu đúng, chưa phân biệt giữa dự thảo luật với quy định pháp luật; giữa phương tiện cơ giới chuyên dụng với phương tiện cá nhân. Thậm chí một số đối tượng cố tình bóp méo thông tin, “dẫn dắt”, “thao túng” dư luận theo hướng cơ quan quản lý nhà nước đang “làm khó” người dân.

Để làm rõ hơn vấn đề này, Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông cho biết: Dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ không quy định bắt buộc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình đối với mô tô, xe gắn máy và xe ôtô cá nhân.
 

Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh cho biết: Đối với mô tô, xe gắn máy và xe ô tô cá nhân không yêu cầu phải lắp đặt thiết bị giám sát hành trình. Tuy nhiên dự thảo Luật khuyến khích lắp đặt thiết bị giám sát hành trình đối với xe của ô tô cá nhân. Bởi vì: Việc thiết bị giám sát hành trình tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình tham gia giao thông đường bộ và tăng cường sự quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội, trật tự an toàn giao thông: (1) hỗ trợ cho việc lái xe an toàn cũng như tránh được những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra; (2) hỗ trợ giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh khi xảy ra va chạm, tai nạn giao thông, ghi lại hình ảnh, sự cố xảy ra trên đường; người điều khiển phương tiện có thể chứng minh được đúng hay sai trong các tình huống bất ngờ xảy ra trên đường, lưu lại bằng chứng khi có kẻ gian xâm hại phương tiện của mình hoặc của người khác; (3) Cung cấp cho cơ quan chức năng để xử lý, góp phần bảo vệ sức khỏe, an toàn tính mạng của lái xe và người khác.

Khoản 4 Điều 33 dự thảo Luật, Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết, theo hướng: Áp dụng bắt buộc đối với một số loại hình phương tiện như xe kinh doanh vận tải, xe hợp đồng, xe ô tô đưa đón học sinh, xe quá khổ giới hạn của đường bộ, xe quá tải trọng, xe vận chuyển hàng nguy hiểm… phải lắp đặt thiết bị giám sát hành trình

Vấn đề giám sát hành trình đối với phương tiện kinh doanh vận tải:

Xe kinh doanh vận tải, nhất là vận tải hành khách cần được xem là chủ thể đặc biệt trong bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, bởi vì nếu tai nạn giao thông xảy ra đối với các phương tiện này sẽ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về sinh mạng của người dân.

Theo thống kê của Bộ Công an, tai nạn giao thông liên quan xe kinh doanh vận tải chiếm gần 40% số vụ, trong đó nhiều vụ tai nạn liên quan xe kinh doanh vận tải hành khách gây thương vong lớn (có thể ví dụ gần đây nhất là vụ tai nạn xe khách ngày 30/9/2023 tại Đồng Nai làm chết 4 người, bị thương 5 người; vụ tai nạn xe khách ngày 31/10/2023 tại Lạng Sơn làm chết 5 người, bị thương 9 người…), chúng ta không thể thờ ơ vô cảm trước thực trạng hết sức thương tâm này.

Chính phủ và các ngành đã triển khai nhiều giải pháp để hạn chế tai nạn liên quan đến xe khách; chúng ta cũng đã nhận diện ra nguyên nhân chủ yếu của các vụ tai nạn này (theo phân tích của Bộ Công an là hơn 70% liên quan đến vi phạm về tốc độ) và cũng đã có giải pháp cụ thể. Một trong những giải pháp quan trọng là các loại phương tiện này bắt buộc phải lắp thiết bị giám sát hành trình (theo quy định tại Nghị định số 10/2020/NĐ-CP ngày 17/01/2020) để giám sát các hành vi vi phạm của lái xe, hành vi vi phạm của hành khách và các vi phạm về vận tải đường bộ.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là dữ liệu giám sát hành trình chưa được sử dụng hiệu quả do có sự chia cắt, không kết nối liên thông dữ liệu với lực lượng trực tiếp bảo đảm trật tự an toàn giao thông, vì vậy nhiều nhà xe trong thời gian ngắn vi phạm rất nhiều lần, có trường hợp vi phạm tốc độ hơn 300 lần/tháng nhưng không bị xử lý, ngăn chặn kịp thời. Nếu có sự giám sát phương tiện kinh doanh vận tải theo thời gian thực, thì chúng tôi cho rằng đã có thể ngăn chặn được, không để xảy ra nhiều vụ tai nạn thương tâm liên quan đến xe khách như vừa qua.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Minh thống nhất cao về sự cần thiết quy định phương tiện kinh doanh vận tải phải bảo đảm điều kiện có thiết bị giám sát hành trình trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Việc giám sát này, giao cho cơ quan thực hiện nhiệm vụ đảm bảo trật tự, an toàn giao thông thực hiện giám sát thực để kịp thời đình chỉ ngay, xử lý ngay những trường hợp vi phạm xảy ra, lái xe vi phạm có thể gây tai nạn cho hành khách hoặc người tham gia giao thông; đồng thời, xử lý kịp thời các lỗi vi phạm khác.

Hồng Dũng
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an



Xây dựng Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi)

Bộ Công an tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức và cá nhân đối với dự thảo Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi) nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong giai đoạn hiện nay; áp dụng pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, bảo đảm thống nhất với các luật có liên quan.

Công an huyện Yên Thế thu hồi súng tự chế, vũ khí, vật liệu nổ.
Công an huyện Yên Thế thu hồi súng tự chế, vũ khí, vật liệu nổ.

Theo dự thảo Tờ trình, qua 05 năm tổ chức triển khai thực hiện Luật Quản lý, sử dụng vũ khí (VK), vật liệu nổ (VLN) và công cụ hỗ trợ (CCHT), các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, Công an các đơn vị, địa phương đã tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 

Bộ Công an đã tham mưu với Chính phủ chỉ đạo, triển khai Luật Quản lý, sử dụng VK, VLN và CCHT đạt nhiều kết quả tích cực, trong đó: Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được tiến hành thường xuyên, rộng khắp, hiệu quả, qua đó đã nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý, sử dụng VK, VLN và CCHT. Kết quả trong 05 năm, toàn quốc đã vận động nhân dân giao nộp 99.689 khẩu súng các loại, 17.860 bom, mìn, lựu đạn, 423.390 viên đạn, 3.762.871 kg thuốc nổ, 46.416 kíp nổ, 25.056 công cụ hỗ trợ, 98.895 vũ khí thô sơ, 6.801 linh kiện lắp ráp vũ khí. 

Bộ Công an với vai trò nòng cốt trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về VK, VLN và CCHT đã chỉ đạo Công an các đơn vị, địa phương áp dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ triển khai quyết liệt, xuyên suốt, hiệu quả từ Bộ đến cơ sở (Công an cấp xã) nên tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến VK, VLN và CCHT đã được kiềm chế; kết quả trong 05 năm toàn quốc đã phát hiện 34.109 vụ, bắt giữ 56.027 đối tượng, trong đó: Chế tạo trái phép 135 vụ, 197 đối tượng; mua bán trái phép 593 vụ, 812 đối tượng; vận chuyển trái phép 208 vụ, 251 đối tượng; tàng trữ trái phép 4.342 vụ, 5.659 đối tượng; chiếm đoạt trái phép 30 vụ, 30 đối tượng; trộm cắp 86 vụ, 91 đối tượng; sử dụng trái phép 28.715 vụ, 48.987 đối tượng (sử dụng các loại dao và phương tiện tương tự dao 16.841 vụ, 26.472 đối tượng); thu 4.975 khẩu súng các loại, 706.169 viên đạn, 321 lựu đạn, bom, mìn, 27.165,8 kg thuốc nổ, 106.564 kíp nổ, 15.249 công cụ hỗ trợ, 28.023 vũ khí thô sơ. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai, thực hiện Luật Quản lý, sử dụng VK, VLN và CCHT đã phát sinh một số bất cập, hạn chế, vướng mắc do có những quy định của Luật không còn phù hợp, chưa đáp ứng được tình hình thực tế hiện nay của công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này.

Vì vậy, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trên, việc nghiên cứu xây dựng Luật Quản lý, sử dụng VK, VLN và CCHT (sửa đổi) là cần thiết, nhằm đảm bảo phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức và người dân; đồng thời, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm, vi phạm pháp luật về VK, VLN và CCHT trong tình hình mới.

Theo đó, dự thảo Luật này chỉnh lý, bổ sung một số nội dung nghiêm cấm mang trái phép VK, VLN, tiền chất thuốc nổ (TCTN), CCHT đến nơi công cộng; quảng cáo trái phép VK, VLN, TCTN, CCHT; che giấu, không tố giác, giúp người khác cải tạo, lắp ráp VK, CCHT; trao đổi, tặng, cho, gửi, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê, cầm cố VK, VLN, TCTN, CCHT hoặc linh kiện VK, CCHT, trừ trường hợp tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài cho, tặng, viện trợ VK, CCHT phục vụ việc nghiên cứu, sản xuất, trang bị, sử dụng nhằm đáp ứng với yêu cầu quản lý nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm về VK, VLN, TCTN, CCHT trong tình hình mới.

Ngoài ra, dự thảo Luật này quy định mới một số nội dung về sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu dao có tính sát thương cao; về thẩm quyền, điều kiện, thủ tục tiếp nhận và quản lý, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ do tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài cho, tặng, viện trợ nhằm quản lý chặt chẽ các hoạt động này, không để tội phạm lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội, phòng ngừa, tránh các hoạt động lợi dụng nhằm mục đích xấu…

Toàn văn dự thảo Luật được đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an để lấy ý kiến đóng góp trong thời gian 60 ngày kể từ ngày đăng. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể xem toàn văn dự thảo và tham gia đóng góp ý kiến tại đây.

Hồng Giang
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an



Cơ quan thẩm tra nhất trí quan điểm cấm tuyệt đối nồng độ cồn trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Sáng 29/11/2023, sau phiên bế mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XV, Văn phòng Quốc hội đã họp báo công bố kết quả kỳ họp. Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường chủ trì phiên họp.

Người dân không phải đổi thẻ căn cước mới nếu chưa có nhu cầu

Trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến một số quy định của Luật Căn cước, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Trung tướng Nguyễn Minh Đức cho biết, theo quy định tại Điều 46 Luật Căn cước có 4 điều khoản chuyển tiếp, trong đó có quy định thẻ căn cước công dân đã được cấp trước ngày Luật Căn cước có hiệu lực thi hành vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được ghi trong thẻ, được cấp đổi sang thẻ căn cước khi công dân có yêu cầu. “Người dân không phải đến cơ quan quản lý để tích hợp, khai báo thông tin, trừ trường hợp có yêu cầu cần đổi thẻ hoặc bổ sung, thay đổi nội dung nào đó liên quan đến cá nhân thì mới đến cơ quan chức năng để cấp đổi thẻ” – Trung tướng Nguyễn Minh Đức cho biết.

Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường phát biểu tại buổi họp báo.

Về thu thập dữ liệu mống mắt, Trung tướng Nguyễn Minh Đức giải thích rõ, khi người dân đến làm thẻ Căn cước mới, đến cấp đổi lại thẻ Căn cước thì cơ quan quản lý sẽ thu thập thông tin bằng thiết bị chuyên dụng để làm giàu dữ liệu trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu căn cước. 

Nhất trí quan điểm cấm tuyệt đối nồng độ cồn

Về quy định lắp camera hành trình đối với các loại xe cơ giới, bao gồm xe ô tô và xe máy chuyên dụng trong dự thảo Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Trung tướng Nguyễn Minh Đức cho biết, đây là quan điểm của Cơ quan soạn thảo nên Cơ quan thẩm tra tôn trọng các nội dung trong tờ trình của Chính phủ và dự thảo Luật, đồng thời tham mưu cho Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội xin ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội. Trách nhiệm của Cơ quan thẩm tra là phối hợp với Cơ quan soạn thảo và các cơ quan chức năng đánh giá tác động của chính sách sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của người dân Việt Nam để quy định sao cho đảm bảo quản lý xã hội, phục vụ lợi ích của người dân. “Đây là dự thảo ban đầu, các đại biểu Quốc hội đang cho ý kiến, đồng thời sẽ có khảo sát, tọa đàm đánh giá nhiều chiều để đi đến chân lý” – Trung tướng Nguyễn Minh Đức nhấn mạnh.
 

Trung tướng Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội trả lời câu hỏi của phóng viên. 

Về nội dung cấm tuyệt đối nồng độ cồn được quy định trong Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Trung tướng Nguyễn Minh Đức cho biết, tại khoản 6 Điều 5 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia có quy định cấm người điều khiển phương tiện giao thông có hành vi uống rượu, bia trước, trong khi lái xe. “Về nguyên tắc của pháp luật Việt Nam là thống nhất trong hệ thống pháp luật, luật ra sau phải trên cơ sở lấy nguồn của luật trước đó. Trên cơ sở của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia, Cơ quan soạn thảo và Cơ quan thẩm tra đề xuất quy định này. Đây là đề xuất ban đầu, đang đưa ra Quốc hội thảo luận. Qua thảo luận, Quốc hội sẽ đánh giá, cho ý kiến đầy đủ, thấu đáo nhất” – Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh nên rõ và cho biết thêm, nếu cần sẽ lấy ý kiến rộng rãi về nội dung này.

“Quan điểm của Cơ quan thẩm tra hoàn toàn đồng ý với Cơ quan soạn thảo là phải tuân thủ quy định của pháp luật. Hàng năm, Uỷ ban Quốc phòng và An ninh thẩm tra các báo cáo về an toàn giao thông, qua tổng kết các vụ tai nạn giao thông đường bộ cho thấy, trung bình có 43% vụ vi phạm giao thông nghiêm trọng do rượu, bia. Chính vì vậy, việc phòng, chống tác hại của rượu bia là mệnh lệnh cần thực hiện. Nội dung này cũng được nhiều người dân ủng hộ. Tôi tin rằng, Quốc hội sẽ cơ bản đồng ý nội dung này” – Trung tướng Nguyễn Minh Đức khẳng định. 

Nguyễn Ngọc – Phương Thủy
Cổng TTĐT Bộ Công an



Quy định các chức danh Trưởng phòng nghiệp vụ của Công an nhân dân có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính

Bộ Công an ban hành Thông tư số 65/2023/TT-BCA quy định về Trưởng phòng nghiệp vụ của Công an nhân dân có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình. Thông tư sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2024.

Lực lượng Công an xử phạt vi phạm hành chính.
Lực lượng Công an kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính về an toàn phòng cháy chữa cháy.

Thông tư này áp dụng đối với: Các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) quy định tại Điều 3; Cá nhân, tổ chức Việt Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài bị XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình; Cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.

Theo đó, các chức danh Trưởng phòng nghiệp vụ của Công an nhân dân có thẩm quyền XPVPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình quy định tại Điều 3 Thông tư, cụ thể:

1. Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục An ninh chính trị nội bộ gồm: Trưởng phòng Bảo vệ nội bộ các cơ quan Đảng, Nhà nước Trung ương; Trưởng phòng An ninh các cơ quan tư pháp, xây dựng pháp luật, tổ chức chính trị – xã hội Trung ương; Trưởng phòng An ninh báo chí, xuất bản; Trưởng phòng An ninh y tế, giáo dục; Trưởng phòng An ninh văn hóa, thể thao và lao động xã hội; Trưởng phòng An ninh bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin; Trưởng phòng Quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật Nhà nước.

2. Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội gồm: Trưởng phòng Hướng dẫn, quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo; Trưởng phòng Hướng dẫn, quản lý các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự và con dấu; Giám đốc Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư.

3. Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát giao thông gồm: Trưởng phòng Hướng dẫn tuyên truyền, điều tra, giải quyết tai nạn giao thông; Trưởng phòng Hướng dẫn, đăng ký và kiểm định phương tiện; Trưởng phòng Hướng dẫn, đào tạo, sát hạch, quản lý giấy phép của người điều khiển phương tiện giao thông; Trưởng phòng Hướng dẫn tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ, đường sắt; Trưởng phòng Hướng dẫn điều khiển giao thông và dẫn đoàn; Trưởng phòng Hướng dẫn tuần tra, kiểm soát và đấu tranh phòng, chống tội phạm trên đường thủy nội địa; Thủy đoàn trưởng.

4. Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ gồm: Trưởng phòng Công tác phòng cháy; Trưởng phòng Thẩm duyệt về phòng cháy, chữa cháy; Trưởng phòng Công tác chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Trưởng phòng Quản lý khoa học – công nghệ và kiểm định phương tiện phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ.

5. Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao gồm: Trưởng phòng Phòng, chống tội phạm sử dụng không gian mạng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; Trưởng phòng Phòng, chống tội phạm sử dụng không gian mạng xâm phạm trật tự xã hội; Trưởng phòng An ninh thông tin mạng; Trưởng phòng Bảo vệ an ninh hệ thống mạng thông tin quốc gia; Trưởng phòng Giám sát thông tin mạng và phòng, chống hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia.

6. Trưởng phòng nghiệp vụ thuộc Cục Quản lý xuất nhập cảnh gồm: Trưởng phòng Quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài; Trưởng phòng Quản lý xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam.

File đính kèm
Minh Ngân
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an



Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ

Bộ Công an dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ để lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Lực lượng Cảnh vệ diễn tập bảo vệ yếu nhân.

Luật Cảnh vệ được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 20/6/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2018. Luật Cảnh vệ được ban hành đã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo đảm xây dựng lực lượng Cảnh vệ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và hiện đại; đồng thời, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về tổ chức, hoạt động của lực lượng Cảnh vệ, tạo thuận lợi cho mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng, góp phần bảo vệ an toàn tuyệt đối đối tượng cảnh vệ. 

Việc ban hành Luật Cảnh vệ là một bước quan trọng trong quá trình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các luật khác có liên quan như: Luật An ninh quốc gia, Luật Công an nhân dân, Luật Quốc phòng, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản… và phù hợp với luật pháp quốc tế liên quan đến công tác cảnh vệ.

Luật Cảnh vệ là cơ sở pháp lý quan trọng quy định về tổ chức, hoạt động của lực lượng Cảnh vệ và trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành trong thực hiện công tác cảnh vệ, đồng thời giúp cho việc trang bị cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của lực lượng Cảnh vệ được quan tâm đầu tư, nâng cấp hiện đại, đồng bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Hợp tác quốc tế về lĩnh vực công tác cảnh vệ được đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận lợi trong phối hợp triển khai bảo vệ đối tượng cảnh vệ cả trong và ngoài nước.

Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, quá trình triển khai thi hành Luật Cảnh vệ năm 2017 đã xuất hiện một số vướng mắc, bất cập cần phải được xem xét sửa đổi, bổ sung, tập trung ở các nhóm vấn đề: Đối tượng cảnh vệ; biện pháp, chế độ cảnh vệ; quyền hạn của lực lượng Cảnh vệ.

Cùng với đó, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn qua 05 năm thi hành, giải quyết các bất cập, vướng mắc của pháp luật về cảnh vệ, bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống pháp luật về cảnh vệ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Về nội dung, dự thảo Luật quy định rõ tiêu chí xác định đối tượng cảnh vệ là các sự kiện đặc biệt quan trọng; sửa đổi theo hướng thu hẹp phạm vi đối tượng cảnh vệ là sự kiện đặc biệt quan trọng. Cụ thể: Sửa đổi, bổ sung Luật Cảnh vệ theo hướng quy định: “Hội nghị, lễ hội do Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính phủ tổ chức có đối tượng cảnh vệ quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 điều này tham dự; đại hội đại biểu toàn quốc do tổ chức chính trị – xã hội ở Trung ương tổ chức; hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt Nam có đối tượng cảnh vệ quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều này tham dự” (có đối tượng cảnh vệ là lãnh đạo chủ chốt: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và khách quốc tế có chức vụ tương đương) thì được xác định là sự kiện đặc biệt quan trọng.

Dự thảo Luật cũng bổ sung thẩm quyền Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ trong trường hợp cấp thiết đối với đối tượng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 10 Luật Cảnh vệ để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, cụ thể bổ sung nội dung “Trong trường hợp cấp thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo đảm công tác đối ngoại, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ phù hợp đối với đối tượng không thuộc trường hợp quy định tại Điều này”.

Toàn văn dự thảo Luật được đăng trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Công an để lấy ý kiến đóng góp trong thời gian 60 ngày kể từ ngày đăng. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể xem toàn văn dự thảo và tham gia đóng góp ý kiến tại đây.

Hồng Giang
Cổng TTĐT Bộ Công an



Thẻ căn cước công dân đã được cấp trước ngày Luật Căn cước có hiệu lực vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được in trên thẻ

Thẻ căn cước công dân (CCCD) đã được cấp trước ngày 01/7/2024 có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được in trên thẻ. Công dân khi có nhu cầu thì được cấp đổi sang thẻ căn cước. Trường hợp chứng minh nhân dân (CMND) còn thời hạn sử dụng thì được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024.

Sáng 27/11/2023, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Căn cước (có hiệu lực kể từ 01/7/2024). Với việc đổi tên gọi từ Luật CCCD sang Luật Căn cước, thẻ CCCD cũng sẽ có tên gọi mới là thẻ căn cước.

Điều 46 Luật Căn cước quy định về chuyển tiếp, trong đó quy định rõ: Thẻ CCCD đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/7/2024) có giá trị sử dụng đến hết thời hạn được in trên thẻ. Công dân khi có nhu cầu thì được cấp đổi sang thẻ căn cước.

Quốc hội chính thức thông qua dự án Luật Căn cước.

Trường hợp CMND còn thời hạn sử dụng thì được sử dụng đến hết ngày 31/12/2024. 

Các loại giấy tờ có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ CMND, CCCD được giữ nguyên giá trị sử dụng; cơ quan Nhà nước không được yêu cầu công dân thay đổi, điều chỉnh thông tin về CMND, CCCD trong giấy tờ đã cấp.

Thẻ CCCD, CMND hết hạn sử dụng từ ngày 15/01/2024 đến trước ngày 30/6/2024 thì tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết ngày 30/6/2024.

Quy định về việc sử dụng CCCD, CMND trong các văn bản quy phạm pháp luật ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành được áp dụng như đối với thẻ căn cước cấp theo quy định của Luật này.

Nguồn: 



Người dân có thể đăng ký cư trú qua ứng dụng VNeID

Bộ Công an vừa ban hành Thông tư số 66/2023/TT-BCA sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư liên quan đến đăng ký cư trú.

Thông tư số 66/2023/TT-BCA có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2024.
Thông tư số 66/2023/TT-BCA có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2024.

Theo đó, Thông tư số 66/2023/TT-BCA ngày 17/11/2023 của Bộ Công an sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 55/2021/TT-BCA ngày 15/5/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú; Thông tư số 56/2021/TT-BCA ngày 15/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về biểu mẫu trong đăng ký, quản lý cư trú; Thông tư số 57/2021/TT-BCA ngày 15/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về quy trình đăng ký cư trú.

Đáng chú ý, Thông tư này sửa đổi Điều 3 của Thông tư số 55/2021/TT-BCA quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú về tiếp nhận, giải quyết hồ sơ và thông báo kết quả giải quyết thủ tục về cư trú. Trong đó, việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký cư trú được thực hiện dưới hình thức trực tiếp tại cơ quan đăng ký cư trú hoặc trực tuyến qua cổng dịch vụ công, ứng dụng VNeID, dịch vụ công trực tuyến khác theo quy định của pháp luật.

Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp tại cơ quan đăng ký cư trú thì người yêu cầu đăng ký cư trú có thể nộp bản sao giấy tờ, tài liệu được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao giấy tờ được cấp từ sổ gốc (bản sao) hoặc bản quét, bản chụp kèm theo bản chính giấy tờ, tài liệu để đối chiếu.

Trường hợp người yêu cầu đăng ký cư trú nộp bản quét hoặc bản chụp kèm theo bản chính giấy tờ để đối chiếu thì người tiếp nhận có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu bản quét, bản chụp với bản chính và ký xác nhận, không được yêu cầu nộp bản sao giấy tờ đó.

Trường hợp thực hiện đăng ký cư trú trực tuyến, người yêu cầu đăng ký cư trú khai báo thông tin theo biểu mẫu điện tử được cung cấp sẵn, đăng tải bản quét hoặc bản chụp giấy tờ, tài liệu hợp lệ (không bắt buộc phải công chứng, chứng thực, ký số hoặc xác thực bằng hình thức khác) hoặc dẫn nguồn tài liệu từ Kho quản lý dữ liệu điện tử của tổ chức, cá nhân; nộp lệ phí thông qua chức năng thanh toán trực tuyến hoặc bằng cách thức khác theo quy định của pháp luật. 

Sau khi hoàn tất việc nộp hồ sơ, người có yêu cầu đăng ký cư trú trực tuyến được cấp 01 mã số hồ sơ thủ tục hành chính để theo dõi, tra cứu tiến độ giải quyết hồ sơ hoặc nhận thông tin để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ khi có yêu cầu của cơ quan đăng ký cư trú.

Trường hợp công dân đăng tải bản quét, bản chụp giấy tờ, tài liệu mà không được ký số hoặc xác thực bằng hình thức khác thì khi cơ quan đăng ký cư trú tiến hành kiểm tra, xác minh để giải quyết thủ tục về cư trú; công dân có trách nhiệm xuất trình giấy tờ, tài liệu đã đăng tải để cơ quan đăng ký cư trú kiểm tra, đối chiếu và ghi nhận tính chính xác vào biên bản xác minh. Cơ quan đăng ký cư trú không yêu cầu công dân nộp để lưu giữ giấy tờ đó.

Bản quét hoặc bản chụp giấy tờ bằng thiết bị điện tử từ giấy tờ được cấp hợp lệ, còn giá trị sử dụng phải bảo đảm rõ nét, đầy đủ, toàn vẹn về nội dung; đã được hợp pháp hóa lãnh sự, dịch sang tiếng Việt theo quy định nếu là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự.

Trường hợp thông tin giấy tờ chứng minh điều kiện đăng ký cư trú đã được chia sẻ và khai thác từ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành thì cơ quan đăng ký cư trú không được yêu cầu công dân nộp, xuất trình giấy tờ đó để giải quyết đăng ký cư trú.

Việc thông báo về kết quả giải quyết thủ tục về cư trú được thực hiện dưới hình thức văn bản giấy hoặc văn bản điện tử, tin nhắn SMS.

Cơ quan đăng ký cư trú có quyền từ chối giải quyết thủ tục về cư trú và không hoàn trả lại lệ phí đối với trường hợp đã nộp lệ phí nếu phát hiện thông tin công dân kê khai không đúng sự thật hoặc giấy tờ, tài liệu công dân đã cung cấp để thực hiện thủ tục về cư trú bị tẩy xóa, sửa chữa, làm giả.

Bên cạnh đó, Thông tư này sửa đổi thông tin phản ánh về cư trú của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức được tiếp nhận thông qua các hình thức dưới đây:

a) Trực tiếp tại cơ quan đăng ký cư trú;

b) Điện thoại, đường dây nóng do cơ quan đăng ký cư trú thông báo hoặc niêm yết;

c) Hòm thư góp ý, hộp thư điện tử do cơ quan đăng ký cư trú thông báo hoặc niêm yết;

d) Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, trang thông tin điện tử của Công an các đơn vị, địa phương;

đ) Qua ứng dụng VNeID và các phương tiện thông tin đại chúng.

Thành Luân
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an



Thông qua Luật Nhà ở (sửa đổi), bổ sung hạ sĩ quan lực lượng vũ trang được thuê nhà ở công vụ

Với 85,63% đại biểu Quốc hội (ĐBQH) biểu quyết tán thành, sáng 27/11/2023, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Nhà ở (sửa đổi). Đáng chú ý, trong đó Luật có quy định người làm công tác cơ yếu và công tác khác trong tổ chức cơ yếu là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc Quân đội nhân dân (QĐND), Công an nhân dân (CAND) thuộc đối tượng được thuê nhà ở công vụ khi được điều động, luân chuyển, biệt phái theo yêu cầu quốc phòng, an ninh.

Trước đó, báo cáo giải trình, tiếp thu do Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày cho biết, về đối tượng được thuê nhà ở công vụ (Điều 45), có ý kiến đề nghị bổ sung vào điểm d khoản 1 Điều 45 đối tượng được thuê nhà ở công vụ là: người làm công tác cơ yếu, công chức, công nhân và viên chức quốc phòng được điều động, luân chuyển, biệt phái theo yêu cầu quốc phòng, an ninh, cơ yếu không phụ thuộc vào địa bàn công tác; người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại vùng sâu, vùng xa.

Các đại biểu tham dự phiên họp.
Các đại biểu tham dự phiên họp.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho rằng, so với Luật Nhà ở hiện hành, dự thảo luật do Chính phủ trình tại Kỳ họp thứ 5 đã bổ sung đối tượng “hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang nhân dân” được thuê nhà ở công vụ. Tiếp thu ý kiến ĐBQH và ý kiến của Chính phủ, dự thảo luật do UBTVQH trình Quốc hội tại phiên thảo luận Hội trường ngày 26/10/2023 đã mở rộng thêm đối tượng thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và tổ chức cơ yếu được thuê nhà ở công vụ.

Theo đó, người làm công tác cơ yếu và công tác khác trong tổ chức cơ yếu là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc QĐND, CAND đã thuộc đối tượng được thuê nhà ở công vụ khi được điều động, luân chuyển, biệt phái theo yêu cầu quốc phòng, an ninh.

Nếu tiếp tục bổ sung, mở rộng thêm đối tượng như đề nghị nêu trên trong khi điều kiện nguồn lực nhà nước cho phát triển nhà ở công vụ còn khó khăn sẽ khó bảo đảm tính khả thi. Báo cáo số 642 ngày 16/11/2023 của Chính phủ cũng chưa làm rõ được kinh phí ngân sách nhà nước cần đầu tư để xây dựng quỹ nhà ở công vụ đáp ứng việc mở rộng thêm phạm vi đối tượng được thuê nhà ở công vụ.

Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày báo cáo.
Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng trình bày báo cáo.

Bên cạnh đó, việc bổ sung đối tượng được thuê nhà ở công vụ theo đề nghị trên sẽ ảnh hưởng đến sự cân đối, đồng bộ về chính sách nhà ở công vụ đối với các nhóm đối tượng khác trong hệ thống chính trị, vì theo quy định tại khoản 1 Điều 45 của dự thảo luật thì cán bộ, công chức phải giữ chức vụ nhất định, như ở Trung ương phải là Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và tương đương trở lên, ở địa phương phải là Phó Chủ tịch UBND cấp huyện, Phó Giám đốc Sở và tương đương trở lên mới thuộc đối tượng được thuê nhà ở công vụ.

Đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội không giữ chức vụ, chỉ được thuê nhà ở công vụ khi được điều động, luân chuyển, biệt phái đến công tác tại xã vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, khu vực biên giới, hải đảo.

“Vì các lý do nêu trên, UBTVQH đề nghị trong giai đoạn hiện nay chỉ mở rộng một bước hợp lý các đối tượng được thuê nhà ở công vụ phù hợp với khả năng đáp ứng của nguồn cung nhà ở công vụ, sau này, khi điều kiện cho phép sẽ xem xét, tiếp tục mở rộng thêm nữa”, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng lý giải.

Đại biểu Quốc hội biểu quyết tại hội trường.
Đại biểu Quốc hội biểu quyết tại hội trường.

Theo đó, việc tiếp thu, chỉnh lý điểm d khoản 1 Điều 45 như dự thảo luật là phù hợp; đồng thời, để bảo đảm bao quát, linh hoạt giải quyết các trường hợp đặc thù có thể phát sinh trong thực tiễn, UBTVQH xin tiếp thu, chỉnh lý điểm g khoản 1 Điều 45 của dự thảo Luật như sau: “(g) Căn cứ điều kiện thực tế, Thủ tướng Chính phủ quyết định đối tượng không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và e khoản này được bố trí nhà ở công vụ theo đề nghị của Bộ Xây dựng trên cơ sở tổng hợp đề xuất của các bộ, cơ quan, tổ chức ở Trung ương, UBND cấp tỉnh”.

Quỳnh Vinh – Thành Luân
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an



Tiếp thu, giải trình nhằm hoàn thiện dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ đảm bảo khả thi

Chiều 24/11/2023, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Quốc hội đã thảo luận về dự án Luật Trật tự, an toàn giao thông (TTATGT) đường bộ. Tại phiên họp, đã có 22 đại biểu phát biểu, 6 đại biểu tranh luận, 25 đại biểu đăng ký nhưng chưa phát biểu do hết thời gian. Sau phần thảo luận, Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an đã thay mặt Cơ quan soạn thảo giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu nêu.

Tóm lược ý kiến các đại biểu, Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, về cơ bản, các ý kiến của đại biểu Quốc hội đều nhất trí xây dựng dự án Luật TTATGT đường bộ, đồng thời tham gia rất chi tiết các nội dung của dự án luật.

Điểm lại những vấn đề các đại biểu Quốc hội đề cập, Bộ trưởng Tô Lâm nêu rõ, tại phiên họp, các đại biểu đã cho ý kiến về sự cần thiết ban hành luật, tên gọi của luật, phạm vi điều chỉnh, đề nghị tiếp tục rà soát lại các quy định trong dự thảo Luật Đường bộ, Luật TTATGT đường bộ để tránh chồng lấn hoặc tạo khoảng trống pháp lý giữa 2 dự thảo luật, thời hạn để đồng bộ hiệu lực thi hành 2 luật này.

Các đại biểu cũng đề nghị bổ sung xe của Viện kiểm sát nhân dân làm nhiệm vụ khẩn cấp là xe của đối tượng ưu tiên; quy định nồng độ cồn của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông; quy định thiết bị giám sát hành trình, thiết bị thu thập dữ liệu hình ảnh người lái xe, dữ liệu đảm bảo an toàn cho hành trình…; phát biểu về các quy tắc tham gia giao thông; giấy phép lái xe; vấn đề hiện đại hoá Cảnh sát giao thông; kiểm soát TTATGT đường bộ, thẩm quyền quy định hoạt động của xe thô sơ, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, vi phạm giao thông.

Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an thay mặt cơ quan soạn thảo giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu nêu.

Có các ý kiến về thời hạn, tiêu chuẩn quy định của xe đưa đón học sinh, an toàn giao thông cho học sinh; vấn đề cứu hộ, cứu nạn và xử lý tai nạn giao thông; bảo trì, bảo dưỡng các công trình giao thông; biện pháp để phòng ngừa hành vi chống người thi hành công vụ; về phương án, tín hiệu hướng dẫn giao thông, chống ùn tắc giao thông, cấp đổi bằng lái xe, quy định dừng đỗ xe, quy định các thiết bị giao thông thông minh, xây dựng dữ liệu về giao thông thông minh; chuyển đổi số…

Các đại biểu còn có ý kiến về đấu giá biển số xe; niên hạn sử dụng xe; quy định về khám sức khoẻ, điều kiện sức khoẻ của người tham gia giao thông, độ tuổi của người điều khiển các phương tiện tham gia giao thông; chế tài xử lý hành chính các vi phạm pháp luật hành chính; quy định về làn đường, tốc độ của các làn đường trên đường cao tốc; vấn đề vận tải đường bộ; vấn đề người đi bộ tham gia giao thông; khái niệm về độ tuổi người tham gia giao thông…; việc thu hồi biển số xe ô tô…

“Đối với các ý kiến khác của các đại biểu, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, các cơ quan, đơn vị có liên quan nghiên cứu kỹ, tiếp thu, giải trình đầy đủ để chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật TTATGT đường bộ đảm bảo khả thi, báo cáo với Quốc hội trước khi trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 7” – Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định.

Toàn cảnh phiên họp.

Phát biểu kết luận nội dung phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, các ý kiến phát biểu rất sôi nổi, trách nhiệm, các vấn đề đại biểu nêu có cơ sở lý luận và thực tiễn. “Qua thảo luận, các đại biểu Quốc hội đánh giá cao sự chủ động kịp thời của Chính phủ đã nghiêm túc tiếp thu kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của cơ quan thẩm tra và có báo cáo dự kiến tiếp thu cụ thể. Các đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành luật; yêu cầu bổ sung cơ sở chính trị pháp lý, thực tiễn, bảo đảm cao nhất an toàn tính mạng của người dân, an ninh quốc gia, hạn chế thấp nhất tai nạn giao thông. Đại biểu nhất trí với bố cục và nhiều nội dung của dự thảo luật, đồng thời đánh giá như hồ sơ dự án luật đã được chuẩn bị chu đáo, công phu…” – Phó Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.

Nguyễn Dịu
Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Công an